Thông Tin Chăn Nuôi
> Thông Tin Chăn Nuôi
25/8/2011 10:42:58
Năng suất là định hướng cho lợi nhuận / Productivity is the driver of profitability
Khi những người sản xuất heo được hỏi “Bạn nghĩ vấn đề nào là những nguyên nhân chính quyết định chất lượng trong kinh doanh của bạn?”, thông thường họ đều trả lời đó là giá heo và chi phí thức ăn. Theo TONY EDWARDS, không thể phủ nhận những ảnh hưởng của các thông số trên đối với lợi nhuận, nhưng theo phân tích cuối cùng, đó cũng không phải là tác nhân chính. Tác nhân chính của lợi nhuận chính là năng suất.
Không phụ
thuộc chi phí thức ăn hay giá heo như thế nào, lợi nhuận cũng sẽ thấp trừ khi
năng suất được duy trì. Bất cứ nỗ lực nào để cắt giảm chi phí sẽ làm cho năng
suất đầu ra bị ảnh hưởng và luôn luôn bị phản tác dụng. Điều này
không có nghĩa là chúng ta không ý thức được tầm quan trọng của chi phí, tuy
nhiên, việc quản lý đầu vào cần phụ thuộc vào hiệu quả của tổng chi phí hơn là
từng chi phí đơn lẻ. Nếu chi phí đầu tư đem lại khả năng sản xuất tốt thì đó là
một cơ hội tuyệt vời để nâng cao lợi nhuận chung. Sơ đồ 1 minh họa đơn
giản công thức lợi
nhuận cơ bản. Lợi nhuận đó chính là chênh lệch giữa giá heo với giá thành sản xuất nhân với số lượng heo sản xuất. Giá thành sản xuất có thể giảm xuống tùy theo chi phí thức ăn và chí phí không phải thức ăn trong
sản xuất. Giá
trị của thành phần
thức ăn trong giá thành sản suất không chỉ là chi phí thức ăn mà còn là hiệu quả mang lại
khi sử dụng (tỉ lệ chuyển hóa thức ăn hoặc kg thức ăn/ kg cân nặng của heo). Thức ăn giá rẻ không hẳn sẽ đem lại chi phí
thấp hơn nếu như hiệu quả chuyển hóa thức ăn kém hơn. Thành phần
không phải thức ăn chính là chi phí lao động, thuế và điện nước, giấy phép, thú y… Các chi phí này thường cố định vì thế ảnh hưởng của chúng lên chi phí
sản xuất phụ thuộc phần lớn vào số lượng heo sản xuất. Khi số lượng heo sản xuất tăng lên, trung bình số kg
cân nặng heo cho các chi phí cố định này sẽ cao hơn, vì thế mà chi phí trên mỗi kg
thịt heo được
giảm xuống. Hiệu quả tương tự trong chi phí thức ăn trên heo sinh
sản. Khi sản xuất nhiều heo con/nái/năm
hơn, chi phí thức ăn cho heo nái trên 1 kg giảm đi, và vì thế làm giảm chi phí sản xuất. Vì thế,
hai thành phần chính trong công thức này không phải là giá heo hay chi phí thức ăn, mà chính là
số lượng heo sản
xuất và hiệu quả sử
dụng thức ăn. Các nhà sản xuất heo có thể ít
nhiều kiểm soát giá
heo – được điều tiết bởi quy luật cung – cầu và có thể bị ảnh
hưởng bởi các sự kiện diễn ra trên thị trường thế giới hoặc ngay tại địa phương. Đây là 3 yếu tố chính quyết định
lợi nhuận (theo thứ tự quan trọng): Năng suất Hiệu quả Chi phí Năng suất nghĩa
là tổng lượng thịt heo được bán ra hoặc cân nặng. Điều này bị
chi phối bởi số lượng
heo được sản xuất/ nái/năm
và cân nặng của heo khi được bán ra. Gia tăng số
lượng heo sản xuất Heo nái
trong giai đoạn sinh sản nên được đưa vào một quy trình khép kín từ lúc giao
phối đến giai đoạn chọn lọc cuối cùng. Những ngày nào heo nái không mang thai
hoặc không đang trong giai đoạn tiết sữa đều được coi là ngày bị thất thoát (ngày
trống), vì thế, những ngày này càng ít càng tốt. Ba chỉ tiêu chính của năng suất heo nái luôn có mối liên
hệ cùng nhau trong kết quả cuối cùng: Số lần sinh sản (lứa đẻ/ nái/ năm) Quy mô ổ đẻ (heo con sinh ra còn sống/ lứa đẻ) Tỉ lệ sống sót (giai đoạn trước và sau cai sữa) Bảng 1 giải thích sự giảm nhẹ của các thông số có liên
quan cùng nhau có thể gây ra những ảnh hưởng quan trọng lên kết quả cuối cùng. Hiệu quả của sản lượng/ nái theo FCR của đàn (kg thức
ăn/ kg thịt heo được sản xuất) độc lập với bất kỳ điều gì khác được đề cập đến
trong bảng 2. Cho rằng có 1300 kg thức ăn được sử dụng/ heo nái/ năm (bao
gồm thức ăn cung cấp cho heo hậu bị giống) và 200 kg thức ăn / con heo từ lúc
mới sinh đến lúc bán khi cân nặng đạt 90kg; năng suất tăng từ 15 lên 24 con
heo/nái/năm, HFCR cải thiện được 11,5%. Dựa theo các kết quả trên và phối hợp với
hiệu quả sản lượng trên các yếu tố không phải thức ăn, ảnh hưởng của chúng lên
chi phí sản xuất được hiển thị trong bảng 3. Vì vậy, nếu không có những thay đổi về chi phí thức ăn
hay bất cứ chi phí đầu vào nào, năng suất nái tăng từ 15 lên 24 con heo được
bán/năm sẽ làm giảm 25 % giá thành sản xuất. Vậy, điều gì quyết định năng suất của heo nái hay số
lượng xuất chuồng? Câu
trả lời là không có yếu tố riêng biệt nào. Đây là vấn đề liên quan đến tất cả
các khía cạnh của quá trình sinh sản và tăng trưởng, cũng như những yếu tố
khác có liên quan. Các
vấn đề chi tiết liên quan 3 yếu tố của năng suất sinh sản của heo nái gồm:
Sản xuất thịt heo Nuôi dưỡng heo thịt giữ vai trò quan trọng đối với năng suất, giai đoạn này
chiếm đến 80 %
lượng thức ăn tiêu thụ, và cũng là giai đoạn quyết định kết quả cuối cùng. Năng suất
và hiệu quả đạt được tối đa khi heo phát triển tối ưu lượng nạc của cơ thể, đạt
được ngưỡng cân nặng đáp ứng theo yêu cầu của thị trường và không bị thiệt hại. Muốn thế cần có sự gia tăng lượng nạc mỗi ngày. Ảnh hưởng lên sự tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn
bao gồm:
Thành công
của heo nuôi thịt không hoàn toàn độc lập với giai đoạn nuôi giống. Cân nặng khi sinh và cân nặng
giai đoạn cai sữa là những yếu tố quyết định đến năng suất của heo. Điều này có hàm ý liên
quan đến dinh dưỡng khi heo nái mang thai, sự phát triển của thai nhi trong
bụng mẹ cũng như khả năng tiết sữa của heo nái cho đến giai đoạn heo con cai
sữa. Năng suất của heo nái bao gồm chất lượng heo con (cân nặng, sự đồng đều,
thể chất) cũng như số lượng heo con được chọn lựa. Mycotoxin có
trong thức ăn dành cho heo nái sẽ làm giảm sự phát triển của bào thai và hạn
chế lượng sữa được sản sinh, hậu quả là làm cho heo con sinh ra ốm yếu. Điều tôi muốn đề cập trong bài viết này là những hiểu
biết về mặt lý thuyết về tỉ lệ lượng mô nạc, lượng thức ăn ăn vào và các thành
phần của cơ thể trong hiệu quả chung. Hai yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả
chuyển đổi thức ăn đó là sự phân bổ năng lượng cho việc duy trì và phát triển
của heo, và thành phần của sự tăng trọng. Duy trì và tăng trưởng Theo khái niệm thực tế, năng lượng duy trì là năng lượng
cần thiết đảm bảo sự sống của thú không tăng hay giảm cân. Đáp ứng được yêu cầu
duy trì là việc vô cùng cần thiết đối với bất kỳ sự tăng trưởng nào. Trong sản
xuất, thường xảy ra những thất thoát do heo chết, vì thế, chúng ta cần giảm
thiểu tối đa lượng thức ăn duy trì để đạt được hiệu quả thức ăn cao nhất. Điều
này đạt được thông qua việc thúc đẩy lượng thức ăn ăn vào càng nhiều càng tốt,
để lượng thức ăn ăn vào đáp ứng đủ yêu cầu duy trì và phục vụ trực tiếp cho sự
tăng trưởng. Tại điểm duy trì, sự tăng trưởng ở mức bằng không và vì
thế hiệu quả thức ăn được tính theo công thức: X thức ăn / 0 tăng trưởng = ∞ ( không xác định). Khi lượng thức ăn ăn
vào tăng lên vượt qua ngưỡng này thì hiệu quả của thức ăn cũng tăng lên rất
nhiều (nhìn Sơ đồ 2), đạt đến mức cao nhất lượng nạc được sản sinh. Yêu cầu về duy trì thường được biểu thị là MAIN. Năng
lượng cung cấp cho một ngày (DE - MJ/ ngày) = 0.5W0.75. Cho 80 kg thịt heo
trưởng thành năng lượng duy trì cần khoảng 13 MJ DE/kg tương đương 1 kg thức
ăn. Vì thế, kg thức ăn đầu tiên mỗi ngày cho heo không tạo sự tăng trưởng, nó
chỉ đóng vai trò thành phần nền tảng của thức ăn, ảnh hưởng trực tiếp lên sự
tăng trưởng. Vì thế, bất kỳ điều gì làm hạn chế lượng thức ăn ăn vào (sức khỏe,
quản lý, cung cấp nước…) đều làm giảm mạnh hiệu quả của thức ăn. Thành phần của các mô tăng trọng Thành phần chính của các mô tăng trọng là mỡ và nạc. Thành phần nạc cần tiêu tốn năng
lượng khoảng 10 MJ DE/kg trong khi thành phần mỡ thì cần cao hơn, 55 MJ DE/kg.
Vì thế thành phần mỡ khá đắt nếu nói theo năng lượng tiêu tốn, hiệu quả của thức
ăn đạt được tốt nhất khi lượng mỡ tạo thành được giảm tối đa. Một khi
lượng mô nạc tiềm năng đạt được ngưỡng thì việc thức ăn cung cấp vượt mức sẽ
chuyển hóa trực tiếp thành mỡ và hiệu quả của thức ăn sẽ bắt đầu bị giảm. Vì vậy,
mức độ tối ưu của lượng thức ăn ăn vào nên thay đổi tùy theo di truyền và giới tính của
heo, phụ thuộc vào năng suất tạo nạc của chúng. Vì vậy,
đâu là mục tiêu hợp lý cho hiệu quả thức ăn trong giai đoạn tăng trưởng? FCR (kg
thức ăn/ kg cân nặng heo sống) có thể thay đổi từ 1,0 ở giai đoạn heo mới cai sữa cho
đến 3,0
ở giai đoạn cuối quá trình trưởng thành. Trung tâm
hợp tác nghiên cứu thịt heo của Úc đã đề xuất năng lượng hiệu quả cần thiết từ
giai đoạn mới sinh đến khi được đưa vào lò mổ là 28.0 MJ DE/kg thể
trọng. Điều này có thể
đạt được với mức tăng trưởng từ khi mới sinh đến lúc xuất thịt là 730 gm/ngày và tỉ lệ nạc: mỡ trong cơ
thể là 86:14 (đạt mức cân bằng khoảng 10mm P2 tại 100 kg thể trọng). Với trường hợp này, tiêu
tốn cho việc tạo mô là
16,3 MJ DE/kg và
tiêu tốn duy trì trung bình là
8,7 MJ DE/ngày.
Vì thế, năng lượng tiêu tốn để tạo mỡ mỗi ngày là: 16.3 x 0.73 =11,88 +
duy trì = 8,70
= 20,58
Dựa trên
năng lượng trung bình của chế độ ăn, FCR cân nặng từ giai đoạn cai sữa đến khi
đưa vào lò mổ là: 13,0 MJ DE/kg = 2,17 13,5 MJ DE/kg = 2,09 14,0 MJ DE/kg = 2,01 Áp dụng mức năng
lượng hiệu quả như trên chúng ta có thể dự kiến được HFCR (tỉ
lệ chuyển đổi thức ăn trong đàn hoặc kg thức ăn/ kg cân nặng thịt được sản
xuất). Năng lượng tiêu tốn của heo từ giai đoạn cai sữa (6- 10
kg thể trọng) đến khi đưa vào lò mổ khoảng
94 kg x 28,2 MJ DE = 2650
MJ DE hoặc 192 kg của 13,8 MJ
DE/kg thức ăn.
Mặc dù giá
trị này là có thể thực
hiện được, nhưng kết quả ghi nhận từ sản xuất thương mại thường ở mức 3.5 – 3.8. Nếu năng
suất heo nái giảm, mức tăng trưởng chậm, hoặc mức độ heo mập tăng (vì bất cứ lý do gì), HCFR có
thể dễ dàng tăng lên 4,5
– 5,0,
điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm lợi nhuận. Bây giờ,
chúng ta có thể thúc đẩy các đề xuất này đưa vào sản xuất và xác định năng suất
đem lại lợi nhuận như thế nào. Bảng 4 so sánh năng suất và lợi nhuận của việc sản xuất
thông thường và sản xuất tiên tiến. Điều cần nói là lợi nhuận giữa 2 mô hình sản xuất này
chênh lệch tới 4 lần chỉ do sự khác biệt về năng suất, hiệu quả sử dụng thức ăn
trong khi giá thức ăn và giá heo là như nhau. Hy vọng
rằng từ những bằng chứng trên, bạn đọc có thể đồng tình với tôi rằng năng suất
là nhân tố chính đem lại lợi nhuận trong sản xuất heo. Biên dịch:
Heo Team Theo Asian
Pork
Các tin khác :
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() loading...
![]() |
![]() ![]() loading...
|
Công ty Kiến Thức Chăn Nuôi Hàn Việt
Số 6, Hưng Thái 1, P. Tân Phong, Q.7, Tp.HCM ĐT: (08) 5410. 3615 - Fax: (08) 5410 3573 - Email: heo@heo.com.vn ©Copyright 2010 by Kiến Thức Chăn Nuôi Heo ®Kiến Thức Chăn Nuôi Heo giữ bản quyền nội dung trên website này
Số lượt truy cập:
|