Thông Tin Chăn Nuôi
> Thông Tin Chăn Nuôi
4/1/2014 09:31:53
Loại bỏ bệnh PRRS: Làm thế nào xác định đàn âm tính?/ PRRS virus elimination: How to prove herd negativity?
Một trong những thách thức khi loại bỏ dịch bệnh là phải đảm bảo rằng tất cả tác nhân gây bệnh đã thật sự được loại bỏ khỏi đàn. Mặc dù, điều này nghe rất đơn giản nhưng rất khó để xác định 100%. Để trả lời câu hỏi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc điểm của tác nhân gây bệnh, các xét nghiệm chẩn đoán và các biểu hiện lâm sàng của bệnh.
Trong
trường hợp của vi-rút PRRS (Hội chứng rối loạn hô hấp sinh sản trên heo), điều
này là rất quan trọng cho việc xác
định chương trình loại bỏ vi-rút PRRS đã được hoàn tất và xác định khi nào có
thể tái đàn với heo hậu bị sạch
bệnh.
Hơn nữa, việc xác định chính xác vi-rút PRRS đã được loại bỏ hoàn toàn sẽ giúp
hỗ trợ việc kiểm soát bệnh này khi tái đàn trong tương lai. Ở những đàn giống loại bỏ vi-rút PRRS bằng cách đóng đàn,
tỷ lệ heo nái và heo hậu bị nhiễm vi-rútgiảm dần theo thời gian do việc loại
thải những heo nhiễm và tỷ lệ heo cai sữa dương tính với vi-rút cũng giảm dần.
Nguy cơ virus tồn tại và lưu hành trong đàn giống xuất phát từ việc nuôi ghép
hoặc giữ lại những heo già, vì điều này tạo điều kiện cho vi-rút tồn tại trong
trại đẻ. Xác
định đối tượng mục tiêu Chương trình quản lý kiểm soát bệnh PRRS trong đàn giống cần thực hiện trên cả 3 nhóm heo: heo
nái, nái hậu bị và heo con. Nái
hậu bị có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn heo nái. Heo con cũng là nguồn vi-rút nếu chúng nhiễm từ lúc sinh ra và sau đó lây nhiễm virus
cho những heo âm tính ở giai đoạn cai sữa. Trên thực tế, heo hậu bị và heo con
trong trại đẻ là 2 đối tượng mục tiêu của chương trình kiểm sóa6t bệnh. Sau khi kết thúc giai đoạn đóng cửa đàn trong chương
trình kiểm soát bệnh PRRS, cần phải lấy mẫu xét nghiệm những nái thay thế âm
tính với vi-rút PRRS
vào thời điểm được đưa vào đàn trước đó. Vì những heo này dễ cảm nhiễm với vi-rút và sẽ là những heo chỉ báo tốt nhất cho sự tồn tại của vi-rút
trong đàn. Chương trình giám sát sẽ bắt đầu
khi nái hậu bị được tiếp xúc với heo nái trong đàn đã nhiễm bệnh ít nhất
là hơn 30 ngày và tốt nhất là trong vài tháng. Chương trình được xem là thành công nếu sau đó xác định
đàn âm tính vẫn luôn duy trì tình trạng âm tính. Cần phải liên tục lấy mẫu của heo con trước cai sữa, kết
hợp với việc lấy mẫu từ nái hậu bị chỉ báo. Nếu chỉ dựa trên việc lấy mẫu từ
heo con thì có thể việc chậm phát hiện heo con dương tính làm cho chương trình
loại bỏ hoàn toàn vi-rút PRRS bị thất bại. Tần số và số lượng mẫu Điều
quan trọng là phải lấy mẫu liên tục theo thời gian và không chỉ lấy một mẫu. Trong
báo cáo của Linhares và cộng sự (2012), chương trình giám sát vi-rút PRRS phải
được tiến hành trên đàn
heo con liên tục theo thời gian khi muốn xác định đàn giống đó âm tính. Trong
nghiên cứu này, 17 trong số 60 trang trại có ít nhất 1 tháng kết quả PCR âm
tính (sau khi cho kết quả PCR dương tính) và 4 trang trại có ít nhất 2 tháng
liên tục kết quả PCR âm tính (sau khi cho kết quả PCR dương tính). Ngoài ra, việc lấy mẫu từ heo con tuổi lớn và heo kém phát triển
cũng làm tăng cơ hội phát hiện heo
nhiễm
(theo Cano và cộng sự, 2008). Nái hậu bị là một đối tượng tốt để lấy mẫu, tốt nhất là lấy mẫu từ dịch miệng. Khi tỷ lệ nhiễm thấp, số lượng mẫu được lấy để có ít nhất
một mẫu dương sẽ khá lớn. Theo Cano và cộng sự (2008) nếu tỷ lệ dương tính là
7% ở heo con cai sữa trong một đàn nái, để phát hiện heo dương tính với độ tin
cậy là 95%, cần phải lấy 41 mẫu để đảm bảo đánh giá với độ chính xác 100%. Trong thực tế, chúng ta thường lấy
khoảng 30 mẫu để phát hiện ít nhất một mẫu dương tính với tỷ lệ lưu hành là 10%
và độ tin cậy là 95% (và 60 mẫu nếu tỷ lệ lưu hành là 5% theo dự tính). Khả năng bỏ sót trường hợp dương tính
sẽ giảm nếu việc lấy mẫu được thực hiện liên tục theo thời gian. Vì vậy, cần thiết phải thực hiện một
chương trình giám sát thường xuyên, có hệ thống. Lựa chọn các
xét nghiệm Lưa chọn các xét nghiệm để chẩn đoán vi-rút PRRS là rất
quan trọng. ELISA chưa cho phép
phân biệt heo bị nhiễm tự nhiên và heo đã tiêm chủng vắc-xin. Vì vậy, xét
nghiệm huyết thanh bị hạn chế trong việc theo dõi heo bị nhiễm trước đó và heo
có miễn dịch thụ động. Xét nghiệm huyết thanh nên được sử dụng cho những đàn
heo âm tính với những heo thay đàn âm tính. Ngoài ra, trong trường hợp cần
thiết, kết quả huyết thanh dương tính nên được xác nhận lại với thử nghiệm IFA
vì kết quả ELISA không chính xác 100%. Phương pháp PCR được xem là 1 lựa chọn tốt để
theo dõi trên heo con. Ở heo con, tốt nhất là
lấy mẫu máu hơn là mẫu dịch miệng (do rất khó lấy). Mẫu amidan cũng có thể được
sử dụng để xác định heo lớn mang trùng, tuy nhiên việc lấy mẫu rất khó khăn nên không được khuyến cáo trong thực tế. Tóm
lại, việc xác định đàn âm tính với vi-rút PRRS là 1 quá trình khó khăn và tốn
kém. Tuy nhiên, việc lấy mẫu liên
tục theo
thời gian ở những đàn mẫn cảm sẽ
làm tăng cơ hội để xác định đàn đó có thực sự âm tính hay không. Đối với vi-rút
PRRS, điều này bao gồm cả việc
theo dõi heo nái hậu bị có kết quả huyết thanh âm tính sau khi đã được nhập vào đàn. Và việc theo dõi tình trạng nhiễm của heo
con trước cai sữa bằng phương pháp PCR theo thời gian cũng được khuyến cáo nhằm xác định sự bài thải vi-rút PRRS từ heo nái, cũng như xác định thời điểm nhập heo âm
tính với PRRS vào đàn. Biên
dịch: Heo Team
Theo
pig333
Các tin khác :
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() loading...
![]() |
![]() ![]() loading...
|
Công ty Kiến Thức Chăn Nuôi Hàn Việt
Số 6, Hưng Thái 1, P. Tân Phong, Q.7, Tp.HCM ĐT: (08) 5410. 3615 - Fax: (08) 5410 3573 - Email: heo@heo.com.vn ©Copyright 2010 by Kiến Thức Chăn Nuôi Heo ®Kiến Thức Chăn Nuôi Heo giữ bản quyền nội dung trên website này
Số lượt truy cập:
|